Năm 2016, bốn cây trồng công nghệ sinh học (đậu tương, ngô, bông và cải dầu) chiếm nhiều diện tích nhiều nhất. Xu hướng sử dụng cây trồng công nghệ sinh học (CNSH) tăng ngô công nghệ sinh học và sự gia tăng cây canola trong khi bông vẫn có xu hướng giảm do giá thấp trên toàn cầu. So với năm 2015, đã có sự gia tăng diện tích ngô công nghệ sinh học, cây cải dầu và cỏ linh lăng. Thời tiết thuận lợi và giá cả thị trường, nhu cầu nhiên liệu sinh học và thức ăn gia súc gia tăng, sự phá hoại sâu bắp ngô ở châu Âu khuyến khích trồng ngô sinh học. Sự gia tăng tích lũy cây cải dầu công nghệ sinh học ở Mỹ, Canada và Australia đã góp phần làm tăng trồng cải dầu CNSH lên 1%.
Đậu tương CNSH Đậu tương chiếm 50% (91,4 triệu ha) diện tích cây CNSH toàn cầu, thấp hơn 1% diện tích năm 2015. 91,4 triệu ha bao gồm 68 triệu ha chống thuốc diệt cỏ và 23,4 triệu ha đậu tương IR/HT (Intacta ™), tăng 82% so với 12,9 triệu ha vào năm 2015. Đậu tương IR/HT đã được triển khai thành công ở các nước Nam Mỹ, cao nhất ở Brazil (20,25 triệu ha) tiếp theo là Argentina và Paraguay, nhưng Uruguay giảm nhẹ do giá đậu tương trên toàn cầu giảm, chi phí sản xuất cao, sự phát triển chính sách tích cực cho ngành ngũ cốc và đậu tương ở Argentina (USDA FAS GAIN, Uruguay, Năm 2016).
Đậu tương CNSH được trồng ở 11 quốc gia với diện tích giảm là Brazil (32,7 triệu ha), Mỹ (31,8 triệu ha), Argentina (18,7 triệu ha), Paraguay (3,2 triệu ha), Canada (2,1 triệu ha), Uruguay (1,2 triệu ha), Bolivia (1,2 triệu ha) và các khu vực nhỏ hơn ở Nam Phi, Mexico, Chilê và Costa Rica. Trong diện tích toàn cầu là 117 triệu ha (số liệu năm 2014 của FAOSTAT, năm 2017), 78% (91,4 triệu ha) là đậu tương công nghệ sinh học vào năm 2016. Năm 2015, đậu tương chịu hạn đã được phê duyệt để thương mại hóa ở Argentina làm tăng danh mục các giống đậu tương CNSH sẽ đáp ứng được nhu cầu của nông dân.
Sự gia tăng lợi ích thu nhập cho nông dân trồng đậu tương công nghệ sinh học trong khoảng thời gian 20 năm 1996 đến năm 2015 là 52,4 tỷ đô la Mỹ và riêng cho năm 2015, 5,05 tỷ đô la Mỹ (Brookes và Barfoot, 2017).
Nguồn: isaaa.org