KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN CAO NGUYÊN KON HÀ NỪNG

1. Thông tin chung về Khu DTSQ thế giới Cao nguyên Kon Hà Nừng

           – Trụ sở Ban Quản lý: Trụ sở Cơ quan thường trực Ban Quản lý Khu Dự trữ sinh quyển thế giới cao nguyên Kon Hà Nừng đặt tại số 24, đường Quang Trung, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.

           – Vị trí địa lý: tọa độ địa lý khu sinh quyển (theo hệ tọa độ WGS 84):

13°47’13” – 14°36’34”

108°0’31” – 108°47’56” 

Tọa độ trung tâm: 108°24’13,67″E  14°11’46,241″N

           – Diện tích: Tổng diện tích (ha):

 

Diện tích

1. Diện tích vùng lõi

57.439,83

2. Diện tích vùng đệm

152.693,98

3. Diện tích vùng chuyển tiếp

203.377,86

Tổng

413.511,67

           – Bản đồ/Sơ đồ của Khu DTSQ, bao gồm các phân khu:

Khu DTSQ thế giới cao nguyên Kon Hà Nừng là khu vực cao nguyên  tiếp giáp giữa cao nguyên Pleiku với cao nguyên Kon Hà Nừng thuộc dãy trường sơn, có những đại diện đa dạng các hệ sinh thái của khu vực địa lý sinh vật chính, bao gồm cả những vùng chịu sự tác động của con người. Hệ sinh thái rừng á nhiệt đới Cao nguyên Kon Hà Nừng hình thành một phần của khu vưc địa lí sinh vật Ấn Độ – Thái Bình Dương. Khu vực  Cao nguyên Kon Hà Nừng đều có đại diện đa dạng của các hệ sinh thái của những khu vực địa lý sinh vật là rừng mưa nhiệt đới. Theo khung phân loại của UNESCO thì ở VQG Kon Ka Kinh, Gia Lai có đại diện của 4 lớp quần hệ (Formation class):

– Lớp quần hệ rừng kín (Closed forest)

– Lớp quần hệ rừng thưa (Woodland, open stands of trees)

– Lớp quần hệ cây bụi (Scrub, shrubland or thicket)

– Lớp quần hệ cỏ (Herbaceous vegetation)

          VQG Kon Ka Kinh: VQG có giá trị sinh học lớn bởi đây là một trong những cư trú cuối cùng của một số loài có ý nghĩa quan trọng, và cũng bởi mức độ ĐDSH rất cao. Do nhiều loài quan trọng của VQG là đặc hữu của khu vực Kon Ka Kinh và / hoặc Việt Nam, khu vực này là không chỉ có tầm quan trọng quốc gia, mà còn trên toàn cầu.

           Khu BTTN Kon Chư Răng: Kết quả điều tra, khảo sát thực địa đến năm 2018 và kế thừa số liệu công bố trước đây đã xác định tại Khu BTTN Kon Chư Răng có 881 (18) loài và dưới loài thuộc 547 chi và 162 (2) họ thực vật của 5 ngành thực vật bậc cao có mạch. Thông nàng (Podocarpus imbricatus), Giổi (Talauma), Lát (Chukrasia tabularis), Kim giao (Nageia fleuryi), Xoay (Dialium cochinchinensis), Trắc (Dalbergia cochinchinensis),….Các loài cây dược liệu quý như Hoàng Đắng, Bách bệnh…

           Ngoài ra còn một số loài rất nguy cấp hoặc nguy cấp toàn cầu như:

           – Trầm hương (Aquilaria crassna), Rất nguy cấp toàn cầu: Mọc rải rác trong rừng mưa nhiệt đới thường xanh mưa mùa ẩm nguyên sinh, ở độ cao 50 – 1000m, trên sườn núi, ít dốc và thoát nước cùng với Táu đá (Hopea exalata), Huỷnh (Tarrietia sp.) Gõ mật (Sindora siamensis). Cũng gặp mọc trong rừng thứ sinh cùng với Thanh thất (Ailanthus malabarica), Mò lưng bạc (Crytocarya metcalflana), Bưởi bung (Acronychia oligophlebia), Mít nài (Artocalpus asperula), Ràng ràng (Ornlosia sp.)… Cây ưa đất feralit điển hình hay feralit núi phát triển trên đá kết, đá phiến hay đá granit, tầng đất trung bình hay mỏng, hơi ẩm, độ pH = 4 – 6. Tái sinh kém,. Cây mẹ gần như không gặp dưới tán rừng rậm, thường chỉ gặp nơi có ánh sáng hay ven rừng. Hiện nay do giá trầm hương rất cao nên cây bị săn lùng ráo riết và bị chặt không kể kích thước to hay nhỏ. Do đó ở nhiều rừng hầu như không còn cây trầm lớn để gieo giống.

           – Lan đốm (Túi tơ gót) (Gastrochilus calceolaris), rất nguy cấp toàn cầu. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Tại Việt Nam, lan đốm phân bố ở Khánh Hòa, Kon Tum, Gia Lai. Thân cây cao 5 cm đến 7 cm, hoa nhỏ màu lục có đốm nâu, môi vàng có đốm đỏ.

           – Hổ Đông Dương (Panthera tigris corbetti): Rất nguy cấp đối với Việt Nam, nguy cấp đối với toàn cầu: Thỉnh thoảng có báo cáo của người dân về dấu vết của hổ và khẳng định hổ ăn thịt vật nuôi, tuy nhiên chưa có dấu vết nào được đo lường và đủ tin cậy để khẳng định chắc chắn là hổ hay báo. Động vật này có thể sử dụng diện tích rừng còn lại để di chuyển giữa Vườn quốc gia Kon Ka Kinh và Khu BTTN Kon Chư Răng và khu vực khác của tỉnh Gia Lai. Việc mở rộng quản lý bảo tồn ra các khu vực bên ngoài ranh giới hiện tại của vườn là rất quan trọng trong việc bảo tồn hổ. Đây là loài có giá trị cao trong buôn bán động vật hoang dã nên có nguy cơ tuyệt chủng rất cao.

           – Có 24 loài được ghi trong Sách đỏ Việt Nam (2007), trong đó có 3 loài ở bậc CR (Panthera tigris – Hổ, Pygathrix cinerea – Chà vá chân xám, Belomys pearsonii – Sóc bay lông tay), 8 loài ở bậc EN (Nomascus gabriellae – Vượn đen má vàng, 10 loài ở bậc VU (Muntiacus vuquangensis).

           – Có 20 loài được ghi trong Danh lục đỏ IUCN (2018), trong đó: có 1 loài ở bậc CR (Pygathrix cinerea – Chà vá chân xám), 5 loài ở bậc EN (Nomascus gabriellae – Vượn đen má vàng.

           – Có 24 loài được ghi trong Nghị định 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính phủ, trong đó có 18 loài ở nhóm IB (Nghiêm cấm khai thác sử dụng vì mục đích thương mại): Nycticebus bengalensis- Cu li lớn, Nycticebus pygmaeus – Cu li nhỏ, Pygathrix cinerea – Chà vá chân xám, Nomascus gabriellae.

           – Có 18 loài được ghi trong nghị định 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ (Nycticebus bengalensis – Cu li lớn, Nycticebus pygmaeus – Cu li nhỏ, Pygathrix cinerea.

           – Chà vá chân xám, Nomascus gabriellae – Vượn đen má vàng, Catopuma temminckii – Báo lửa, Panthera tigris – Hổ.

 

4. Các giá trị văn hóa nổi bật:

           Gia Lai là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Tây Nguyên, dân số gần 1,6 triệu người. Toàn tỉnh hiện có 44 dân tộc người cùng sinh sống trên địa bàn 14 huyện, 2 thị xã và 1 thành phố, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm trên 46% tổng dân số.

           Người Bahnar và Jrai cư trú tập trung trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Đây là 2 trong số 11 dân tộc được coi là chủ nhân của di sản văn hóa phi vật thể Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (KGVHCCTN).

           Với người Bahnar, Jrai xưa, cồng chiêng có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần. Đó vừa là một linh khí để giao tiếp với thần linh trong nghi lễ truyền thống, vừa là một tài sản có giá trị. Mặc dù đã có nhiều thay đổi nhưng trong đời sống thường ngày, về cơ bản cồng chiêng vẫn là tài sản quý của các cộng đồng. Trong nhiều sinh hoạt tín ngưỡng, và gần đây là một số lễ nghi tôn giáo, cồng chiêng được sử dụng như một nhạc cụ.

           Ngày 25/11/2005, KGVHCCTN đã được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

           Từ đó đến nay, các tỉnh Tây Nguyên nói chung, Gia Lai nói riêng đã triển khai nhiều hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa này, từ công tác chỉ đạo, điều hành đến các dự án, sự kiện và chính sách đối với nghệ nhân lĩnh vực này.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây nguyên