Trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam cần tăng tốc để duy trì vị thế xuất khẩu và đảm bảo an ninh lương thực, công nghệ chỉnh sửa gen (Gene Editing) được coi là giải pháp chiến lược, mở ra cơ hội lớn cho sản xuất bền vững và năng suất cao. Tuy nhiên, dù sở hữu ưu điểm vượt trội so với công nghệ chuyển gen truyền thống chỉ tác động chính xác vào DNA nội sinh, chi phí thấp hơn và rút ngắn thời gian tạo sản phẩm công nghệ chỉnh sửa gen ở Việt Nam lại chưa được phát triển tương xứng.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) Phùng Đức Tiến cho rằng, việc hoàn thiện khung pháp lý vẫn là điều kiện tiên quyết để khoa học công nghệ phát huy hiệu quả.
(Ảnh: Báo NN&MT)
Vấn đề cốt lõi được nhiều chuyên gia và nhà quản lý nhấn mạnh là khung pháp lý chưa hoàn thiện. Theo Thứ trưởng Bộ NN&MT Phùng Đức Tiến, công nghệ chỉ có thể phát huy hiệu quả khi đi cùng với một hành lang pháp lý đầy đủ, minh bạch và tiên tiến, tạo động lực cho các nhà khoa học yên tâm cống hiến.
Để giải quyết nút thắt này, Bộ NN&MT đang khẩn trương xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, với trọng tâm là phân định rõ ràng khái niệm “chỉnh sửa gen” và “biến đổi gen (GMO)”; thể chế hóa khái niệm “chỉnh sửa gen” trong Luật Đa dạng sinh học và các luật liên quan. Việc này sẽ làm căn cứ để Chính phủ quy định chi tiết về phạm vi và tiêu chí quản lý, bảo đảm tính minh bạch và thuận lợi cho đổi mới sáng tạo.
Việc thiếu khung pháp lý đang khiến nhiều kết quả nghiên cứu bị “trói buộc”, không thể đưa vào ứng dụng và thương mại hóa. Ngoài ra, việc chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật cho giống cây trồng chỉnh sửa gen cũng là một rào cản lớn. Theo đó, cần thiết phải có luật, có quy chuẩn trước, sau đó mới phát triển hệ thống nghiên cứu, ứng dụng. Điều này không chỉ khuyến khích doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) mà còn giúp xây dựng lòng tin xã hội thông qua công tác truyền thông khoa học đầy đủ, từ đó đưa công nghệ chỉnh sửa gen trở thành động lực then chốt cho nền nông nghiệp hiện đại của Việt Nam./.
NCBA

