Vườn quốc gia Xuân Thủy (Nam Định) – Ảnh do VQG cung cấp
Vườn Quốc gia Xuân Thủy thuộc huyện Giao Thủy, Nam Định là một khu vực bãi bồi màu mỡ phía nam cửa Ba Lạt của sông Hồng với tổng diện tích khoảng 7.100 ha. Khu vực ĐNN ở đây là nơi trú ngụ của quẩn thể các loài động thực vật ngập nước điển hình ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với môi trường sống của hơn 215 loài chim nước mà nhiều loại trong số đó có tên trong sách đỏ thế giới như: Cò mỏ thìa, choi choi mỏ thìa, choắt lớn mỏ vàng, diệc đầu đỏ, bồ nông, mòng biển,…
Vườn Quốc gia Xuân Thủy có 120 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó có gần 20 loài thích nghi với điều kiện ngập nước cấu thành nên hàng ngàn ha RNM. Rừng ở đây góp phần cố định phù sa đề tạo nên các bãi bồi mới, làm vườn ươm và cung cấp thức ăn cho các loài động vật thủy sinh, đồng thời đóng vai trò cân bằng sinh thái trong khu vực. Thực vật nổi có 111 loài, nhiều loài rong tảo có giá trị kinh tế cao như Rong câu chỉ vàng.
Hàng năm, có đến khoảng 100 loài chim di cư chọn nơi đây làm điểm dừng cân trên hànhg trình về phương nam tránh rét, trong đó có đến 1/5 số lượng cò mỏ thìa của toàn thế giới. Cò mỏ thìa là loại chim nước có cái mỏ hình thìa rất độc đáo, hiện số lượng còn lại không nhiều trong tự nhiên, có lẽ vì thể mà hình ảnh của nó được làm biểu trưng cho VQG Xuân Thủy. Với những giá trị nổi bật toàn cầu của mình, vào năm 1989, vùng Đất ngập nước Xuân Thủy được công nhận là khu Ramsar thứ 50 của thế giới và đầu tiên ở Đông Nam Á với việc đáp ứng 6/9 tiêu chí của khu Ramsar.
Năm 1992, UBND huyện Xuân Thuỷ thành lập Trung tâm tài nguyên môi trường thuộc huyện để giúp Chính phủ thực hiện cam kết đã ký với cộng đồng quốc tế về bảo tồn vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế tại Xuân Thuỷ.
Năm 1992, Bộ lao động thương binh và xã hội phê duyệt dự án lấn biển Cồn Ngạn, bao gồm:” Phần diện tich đất ngập nước tính từ Đê Vành Lược đến đê Ngự Hàn chia thành 04 ô để có thể quy hoạch xây dựng khu kinh tế mới cho 03 xã mới.”
Năm 1995, Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông Nghiệp &PTNT) phê duyệt Luận chứng kinh tế kỹ thuật Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Xuân Thuỷ; để sau đó UBND tỉnh Nam Hà quyết định thành lập Ban quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên trực thuộc Chi cục kiểm lâm tỉnh Nam Hà.
Nghề nuôi trồng thuỷ sản ở khu vực trải qua rất nhiều thăng trầm, từ việc ban đầu chỉ tập trung nuôi quảng canh một vài loài bản địa chủ yếu như: tôm, cua, ngao với việc đáp ứng thị trường tại chỗ đến việc mở rộng quy mô nuôi ( tăng diện tích, số loài và cường độ nuôi…) nhằm mục đích xuất khẩu. Dự án của Bộ Lao động TB&XH thay đổi mục tiêu từ việc lấn biển di dân hình thành 03 xã mới để chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản phục vụ mục đích sản xuất hàng hoá. Cũng vì vậy một xã mới tương ứng với địa phận xã Giao An là xã Giao Hưng (1997) đã được Thủ Tướng Chính Phủ huỷ bỏ quyết định vào năm 2003. Truyền thống lấn biển cũng được thay đổi thành: ” vẹt lấn biển, tôm lấn vẹt”.
Rừng ngập mặn cũng có lịch sử hình thành khá phức tạp. Ban đầu chỉ là phong trào trồng Vẹt (Trang) tự phát để phòng hộ đê biển, sau đó địa phương đã nhận được các tài trợ nhỏ của Chính Phủ và các Tổ chức quốc tế. Năm 1995-1998, Rừng ngập mặn được trồng bằng nguồn kinh phí Phủ xanh đất trống đồi trọc ( Chương trình 327), Từ năm 1999 đến nay là Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng ( Chương trình 661). Đặc biệt từ năm 1997-2005 Hội chữ thập Đỏ Đan Mạch tài trợ cho huyện Giao Thuỷ dự án Phục hồi rừng ngập mặn với quy mô trồng RNM lên tới hàng ngàn ha và đã đạt được hiệu quả khá tích cực. Rừng Phi lao được trồng chủ yếu ở má ngoài Cồn Lu và dải cát ở má ngoài của Bãi Trong bằng các nguồn kinh phí như trên, Năm 1999 diện tích rừng phi lao ổn định đã lên tới trên 100 ha. Những năm gần đây do bị ảnh hưởng của bão gío và nước biển dâng nên rừng Phi lao bị suy giảm nhiều, Diện tích rừng bị thu hẹp chỉ còn khoảng 50 ha tập trung ở phía má ngoài Cồn Lu.
Năm 2002, Đập Vọp được thông bằng Cầu Vọp, đồng thời với việc mở hàng loạt các kênh cấp thoát nước chạy dọc Cồn Ngạn, hệ thống nước được điều hoà hợp lý hơn. Năm 2004 là năm được mùa Ngao giống tự nhiên giúp cho cộng đồng địa phương có được nguồn thu nhập khá lớn ( hàng trăm tỷ đồng từ sản phẩm ngao các loại). Tuy nhiên mấy năm trở lại đây do việc canh tác bất hợp lý cộng với các yếu tố khách quan khác như: ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu, nghề nuôi trồng thuỷ sản nói chung ở khu vực bị suy giảm mạnh. Nhiều đầm tôm và vây vạng làm ăn kém hiệu quả, thất thu, bỏ đầm trống hoặc làm cầm chừng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến nghề nuôi trồng thuỷ sản và an sinh xã hội ở khu vực.
Năm 2003, Chính phủ quyết định chuyển hạng Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Xuân Thuỷ thành Vườn quốc gia Xuân Thuỷ.
Năm 2004, UNESCO tiếp tục công nhận Khu dự trữ sinh quyển ven biển liên tỉnh đồng bằng châu thổ Sông Hồng, trong đó Vườn quốc gia Xuân Thuỷ trở thành vùng lõi có tầm quan trọng đặc biệt của Khu dự trữ sinh quyển thế giới này.
Nguồn: Cục BTTN & ĐDSH